Facebook khiến cuộc sống người dùng căng thẳng hơn
					Có hàng ngàn bạn bè trên Facebook  có thể là điều mà nhiều người mong đợi. Tuy nhiên, một cuộc  nghiên cứu gần đây của các giáo sư trường đại học Edinburgh  Napier (Anh) cho thấy, càng nhiều bạn bè trên Facebook, người  dùng sẽ càng đối mặt với nhiều căng thẳng.
Giáo sư Kathy  Charles, trưởng nhóm nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn và  khảo sát trên 2000 người, hỏi họ những câu hỏi về Facebook và  cách sử dụng mạng xã hội này trong cuộc sống hàng ngày.
Kết  quả cuối cùng cho thấy Facebook đã làm ảnh hưởng không nhỏ  đến cuộc sống thực của nhiều người, và có thể làm họ bị sao  nhãng, thậm chí bị stress.
 
 
 
 
Có hàng ngàn bạn bè trên Facebook    có thể là điều mà nhiều người mong đợi. Tuy nhiên, một cuộc    nghiên cứu gần đây của các giáo sư trường đại học Edinburgh    Napier (Anh) cho thấy, càng nhiều bạn bè trên Facebook, người    dùng sẽ càng đối mặt với nhiều căng thẳng.
Giáo sư Kathy  Charles, trưởng nhóm nghiên cứu đã tiến hành   phỏng vấn và  khảo sát trên 2000 người, hỏi họ những câu hỏi   về Facebook và  cách sử dụng mạng xã hội này trong cuộc sống   hàng ngày.
Kết  quả cuối cùng cho thấy Facebook đã làm ảnh hưởng không   nhỏ  đến cuộc sống thực của nhiều người, và có thể làm họ   bị sao  nhãng, thậm chí bị stress.

 
 
 
 
 
Mạng xã hội "ảo" ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống "thật".
Theo đó, trong số những người  được hỏi, có 12% số người cho   biết Facebook khiến họ cảm thấy  lo lắng, 63% số người cho biết   họ chậm trễ trong việc trả lời  yêu cầu kết bạn, 32% khác  cho  biết bị từ chối lời yêu cầu kết  bạn khiến họ cảm thấy  khó  chịu và không thoải mái, trong khi  10% số người còn lại  cho  biết không muốn nhận được lời mời  kết bạn.
Với kết quả nghiên cứu trên cho thấy, có vẻ như  phần lớn   người tham gia Facebook chỉ vì sức ép muốn theo kịp  thời đại   và không để lỡ các sự kiện được thông báo thông qua  Facebook.   Đôi khi, việc nhận được yêu cầu kết bạn từ những  người không   quen biết cũng có thể khiến những đối tượng này  trở nên   stress và căng thẳng. Thậm chí, cảm giác khó chịu và  stress   này lại đến từ sự đố kỵ về số lượng bạn bè mà mỗi  người   có được trên Facebook.
Tuy nhiên, một điều đáng lưu  ý là cuộc nghiên cứu này có quy   mô khá nhỏ (chỉ 2000 người  tham gia), với 72,6% người tham gia   là nữ, trong độ tuổi trung  bình 30,4. Do vậy, kết quả cuối   cùng có thể xem là bằng chứng  khoa học cho một nhận định,   nhưng cũng khó có thể phủ nhận  sự ảnh hưởng của Facebook đối   với đời sống thực.
“Giống  như mà  túy, người dùng tham gia  Facebook vì áp lực và   muốn  theo kịp bạn bè, nhưng rồi sau đó, họ không thể ngừng   tiếp tục  sử dụng Facebook, ngay cả khi không còn cảm thấy vui   vẻ khi vào  Facebook” – Giáo sư Charles kết luận.
Theo đó, trong số những người  được hỏi, có 12% số người cho biết Facebook khiến họ cảm thấy  lo lắng, 63% số người cho biết họ chậm trễ trong việc trả lời  yêu cầu kết bạn, 32% khác cho biết bị từ chối lời yêu cầu kết  bạn khiến họ cảm thấy khó chịu và không thoải mái, trong khi  10% số người còn lại cho biết không muốn nhận được lời mời  kết bạn.
Với kết quả nghiên cứu trên cho thấy, có vẻ như  phần lớn người tham gia Facebook chỉ vì sức ép muốn theo kịp  thời đại và không để lỡ các sự kiện được thông báo thông qua  Facebook. Đôi khi, việc nhận được yêu cầu kết bạn từ những  người không quen biết cũng có thể khiến những đối tượng này  trở nên stress và căng thẳng. Thậm chí, cảm giác khó chịu và  stress này lại đến từ sự đố kỵ về số lượng bạn bè mà mỗi  người có được trên Facebook.
Tuy nhiên, một điều đáng lưu  ý là cuộc nghiên cứu này có quy mô khá nhỏ (chỉ 2000 người  tham gia), với 72,6% người tham gia là nữ, trong độ tuổi trung  bình 30,4. Do vậy, kết quả cuối cùng có thể xem là bằng chứng  khoa học cho một nhận định, nhưng cũng khó có thể phủ nhận  sự ảnh hưởng của Facebook đối với đời sống thực.
“Giống  như mà  túy, người dùng tham gia  Facebook vì áp lực và muốn  theo kịp bạn bè, nhưng rồi sau đó, họ không thể ngừng tiếp tục  sử dụng Facebook, ngay cả khi không còn cảm thấy vui vẻ khi vào  Facebook” – Giáo sư Charles kết luận.

Trở về